Thuốc BVTV sinh học đang và sẽ có mức tăng trưởng cao trên thế giới cũng như Việt Nam. Đây được xem là lựa chọn phù hợp nhất cho sản xuất nông nghiệp bền vững.
Sẽ tăng trưởng cao liên tục
Hiện nay, ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, việc phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng bền vững, vừa phải quan tâm đến việc tăng năng suất, sản lượng nông sản để đáp ứng nhu cầu an ninh lương thực, vừa phải giảm thiểu ảnh hưởng của những yếu tố bất lợi đối với sức khỏe con người, môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Để giải quyết vấn đề này, việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) sinh học được xem là một lựa chọn phù hợp nhất.
Theo nghiên cứu thị trường của Fortune Business Insights Pvt.Ltd (Ấn Độ), trong thời gian từ năm 2014 – 2017, tốc độ tăng trưởng của thuốc BVTV sinh học trung bình hàng năm là 24%. Năm 2017, thuốc BVTV sinh học đạt giá trị 3,36 tỷ USD, dự báo sẽ đạt 6,42 tỷ vào năm 2023 và 10,19 tỷ USD vào năm 2025.
Tổ chức Markets and Markets, chuyên nghiên cứu về thị trường các vật tư nông nghiệp thế giới cũng đưa ra phân tích và dự báo: Trong giai đoạn 2020 – 2025, thị phần toàn cầu các chế phẩm thuộc nhóm thuốc trừ sâu vi sinh vật Macrobials tăng trưởng 15,8%, giá trị đạt 2,2 tỷ USD (năm 2020) và ước đạt 4,6 tỷ USD (năm 2025).
Thuốc trừ bệnh sinh học sẽ đạt 1,6 tỷ USD vào năm 2020 và dự báo đạt 3,4 tỷ USD vào năm 2025, mức tăng trưởng trong giai đoạn 2020 – 2025 đạt 16,1%. Thuốc diệt cỏ sinh học đạt 1,6 tỷ USD (năm 2020), dự đoán tốc độ tăng trưởng sẽ đạt 14,5%.
Ở khu vực Bắc Mỹ, dự báo thị phần thuốc BVTV sinh học sẽ tăng liên tục trong giai đoạn 2021 – 2025 và đến năm 2025 sẽ chiếm thị phần lớn nhất thế giới. Khu vực Châu Âu và Châu Á – Thái Bình Dương cũng được dự báo là những thị trường hấp dẫn nhờ triển vọng tăng trưởng cao trong những năm tới…
Tại Việt Nam, theo báo cáo tổng kết của 10 nước ASEAN vào năm 2016, Việt Nam là nước đứng đầu ASEAN về số lượng cũng như chủng loại thuốc BVTV sinh học đã đăng ký và sử dụng.
Theo số liệu của Cục BVTV, thị trường thuốc BVTV sinh học của Việt Nam năm 2019 đạt giá trị 30,7 triệu USD và dự kiến đạt 65,7 triệu USD vào năm 2024, với mức tăng trưởng trên 16,4%/năm.
Về nhập khẩu, lượng thuốc BVTV sinh học nhập khẩu hàng năm vào Việt Nam khoảng trên 15.000 tấn, chiếm 15% tổng lượng thuốc BVTV nhập khẩu.
Năm 2019, Việt Nam nhập khẩu hơn 16.100 tấn thuốc BVTV sinh học (khoảng 50,8 triệu USD) chiếm 17% khối lượng thuốc BVTV nhập khẩu. Tuy nhiên, các loại thuốc BVTV sinh học có thành phần hữu hiệu là các vi sinh vật thì hầu hết được sản xuất trong nước, chủ yếu là do viện nghiên cứu, trường đại học và một số công ty chuyên kinh doanh các thuốc sinh học sản xuất và phân phối.
Về xuất khẩu, theo số liệu của Cục BVTV, hàng năm các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu thuốc BVTV sinh học tới 9 quốc gia. Khối lương xuất khẩu năm 2019 là 930 tấn (chiếm 8% lượng thuốc BVTV xuất khẩu). Các thị trường có thị phần nhập khẩu lớn là Đài Loan (155 tấn), Campuchia (360 tấn), Nhật Bản (70 tấn), Singapore (36 tấn), Lào (63 tấn), Myanmar (50 tấn), Trung Quốc và các nước khác.
Hành lang pháp lý thông thoáng
Hiện nay, các cơ quan quản lý đã ban hành nhiều quy định, nghị định và các thông tư hướng dẫn về việc khuyến khích, hỗ trợ nghiên cứu, sản xuất và sử dụng thuốc BVTV sinh học.
Bên cạnh đó, các thuốc BVTV sinh học được khuyến khích đăng ký trên tất cả các loại cây trồng, giảm số lượng khảo nghiệm hiệu lực sinh học, khảo nghiệm xác định thời gian cách ly. Hồ sơ, tài liệu kỹ thuật, chi phí đăng ký và thời gian thực hiện đều được giảm hơn rất nhiều so với các loại thuốc BVTV hóa học.
Ngoài ra, theo quy định về vận chuyển hàng hóa nguy hiểm, thì các thuốc BVTV sinh học đã được miễn giảm thủ tục cấp giấy phép vận chuyển.
Tính đến tháng 6/2020, danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng tại Việt Nam ban hành kèm theo thông tư số 10/2019/TT-BNNPTNT ngày 20/9/2019 của Bộ NN-PTNT đã có hơn 1.000 hoạt chất với hơn 4.000 tên thương phẩm. Trong đó, thuốc BVTV sinh học có 231 hoạt chất với 721 tên thương phẩm, chiếm 18% tổng các thuốc BVTV trong danh mục.
Theo số liệu của Cục BVTV, hiện nay, tổng số sinh vật gây hại đã được đăng ký là 751 loài trên 284 loại cây trồng khác nhau. Trong đó thuốc BVTV sinh học đã đăng ký phòng trừ 492 sinh vật gây hại trên 190 loại cây trồng (chiếm 65,11% so với tổng số sinh vật gây hại trong danh mục).
Đã có hơn 250 tổ chức, cá nhân tiến hành đăng ký thuốc BVTV sinh học với 1 tên hoặc nhiều tên thương phẩm trên các đối tượng cây trồng chính như cây lúa, rau và cây ăn quả.
Còn nhiều hạn chế
Ông Nguyễn Văn Sơn, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Sản xuất và Kinh doanh thuốc BVTV Việt Nam (VIPA) cho biết: Theo thống kê, số lượng thuốc BVTV sinh học được đăng ký tại Việt Nam gia tăng rất nhanh kể từ năm 2000, nhưng đa phần vẫn phải nhập khẩu từ Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ… Tuy nhiên, dù số lượng các thuốc BVTV sinh học tăng nhanh nhưng doanh số chỉ đạt dưới 10% tổng doanh số thuốc BVTV.
Bên cạnh các ưu điểm, nhiều loại thuốc BVTV sinh học vẫn bộc lộ một số nhược điểm như hiệu lực phòng trừ dịch hại chậm hơn, thời gian bảo quản ngắn hơn thuốc BVTV hóa học.
Giá bán sản phẩm cao, khó cạnh tranh được với các sản phẩm hóa học khác. Quy trình đóng gói thuốc nhập khẩu có khả năng lẫn tạp, chưa rõ ràng, nhất là hỗn hợp giữa các loại với nhau. Thêm vào đó, Nhà nước chưa có chính sách hỗ trợ về vốn, đất làm xưởng, miễn hoặc giảm thuế sản xuất, tiêu thụ cho thuốc BVTV sinh học.
Việc tuyên truyền, hướng dẫn sử dụng thuốc BVTV sinh học cho người dân vẫn còn nhiều hạn chế. Trong khi việc sử dụng thuốc BVTV sinh học cần một quy trình nghiêm ngặt (thời điểm sử dụng, cách sử dụng, số lần sử dụng…) và việc sử dụng phải đồng bộ bởi nhiều hộ dân trên một diện tích lớn mới mang lại hiệu quả như mong muốn.
Hệ thống các tiêu chuẩn, quy chuẩn để kiểm tra chất lượng thuốc BVTV trong những năm qua đã xây dựng tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, một số phương pháp để xác định hàm lượng cụ thể đối với các loài vi sinh vật đặc thù, các loại thuốc BVTV chiết xuất từ thảo mộc còn gặp khó khăn trong quá trình xây dựng tiêu chuẩn kiểm tra chất lượng. Do vậy, việc nhập khẩu, sản xuất và hợp quy các sản phẩm thuốc BVTV sinh học gặp nhiều khó khăn.
Cần chính sách khuyến khích
Ông Nguyễn Văn Sơn, Chủ tịch VIPA bày tỏ mong muốn: Để tiếp tục thúc đẩy việc phát triển và sử dụng thuốc BVTV sinh học, tạo động lực cho doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này, Chính phủ và các bộ, ngành liên quan cần tiếp tục rà soát, đề xuất hoàn thiện các quy định pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đăng ký thuốc BVTV sinh học và thuốc BVTV thế hệ mới an toàn với người và môi trường.
Cần đơn giản các quy định, rút ngắn quy trình, giảm chi phí đối với việc xin cấp giấy phép khảo nghiệm, giấy chứng nhận đăng ký thuốc BVTV sinh học.
Tăng cường công tác tuyên truyền, khuyến khích người sản xuất, sử dụng thuốc BVTV sinh học. Đặc biệt, tập trung vào các cây trồng có giá trị kinh tế cao, yêu cầu điều kiện về ATTP để phục vụ cho xuất khẩu và tiêu dùng trong nước.
Ưu tiên kinh phí cho các đề tài, dự án nghiên cứu phát triển và sử dụng thuốc BVTV sinh học khả thi, các chương trình khuyến nông, cũng như hỗ trợ tìm đầu ra cho thuốc BVTV sinh học.
Cần đẩy mạnh việc hợp tác giữa các cơ quan quản lý, cơ sở sản xuất nông nghiệp với các hiệp hội, ngành hàng thực hiện mô hình chuỗi liên kết sản xuất, sử dụng thuốc BVTV sinh học hiệu quả. Từ đó kết hợp với các cơ quan truyền thông phổ biến, tuyên truyền, nhân rộng trên phạm vi cả nước.
Ngoài ra, VIPA cũng kiến nghị nhà nước nghiên cứu, xem xét giảm thuế nhập khẩu đối với thuốc BVTV sinh học và các dây chuyền công nghệ sản xuất thuốc BVTV sinh học về mức 0%.
Tiếp tục sửa đổi, bổ sung, cắt giảm các quy định, các điều kiện liên quan đến thuế sản xuất và kinh doanh thuốc BVTV sinh học. Có chính sách hỗ trợ vốn, cho thuê đất làm xưởng, miễn hoặc giảm thuế sản xuất, tiêu thụ cho thuốc BVTV sinh học.
Ðối với vấn đề sử dụng, cần có chính sách hỗ trợ giá cho nông dân sử dụng thuốc BVTV sinh học trong giai đoạn đầu từ 30-40% như nhiều quốc gia hiện đang áp dụng.
Trung Quân (Nông nghiệp Việt Nam)
Bài gốc: https://nongnghiep.vn/thoi-cua-thuoc-bao-ve-sinh-hoc-d305995.html