Rầy nâu hại lúa

Rầy nâu (Nilaparvata lugens Stal) được đánh giá là một trong những dịch hại quan trọng nhất trên cây lúa hiện nay không chỉ ở Việt Nam mà còn ở khắp các vùng trồng lúa trên thế giới. Rầy nâu không chỉ gây hại trực tiếp bằng cách chích hút dịch cây lúa làm cản trở quá trình sinh trưởng và phát triển của cây lúa ma nguy hại hơn, chúng còn là tác nhân môi giới lây truyền các loại virus rất nguy hiểm trên cây lúa, trong đó hiện nay là virus vàng lùn, lùn xoắn lá. Do vậy việc nghiên cứu đặc điểm sinh thái, sinh học của rầy nâu là một trong những bước cần thiết để phòng trừ rầy nâu đạt hiệu quả cao.

1. Tổng quan

Rầy nâu tên khoa học là : Nilaparvata lugens Stal. Thuộc họ: Delphacidae. Bộ: Homoptera

1.1 Đặc điểm hình thái

– Trứng rầy nâu có dạng ”quả chuối tiêu”, mới đẻ trong suốt, gần nở chuyển màu vàng và có hai điểm mắt đỏ. Trứng rầy nâu đẻ thành từng ổ từ 5 – 12 quả nằm sát nhau theo kiểu ”úp thìa”, đầu nhỏ quay vào trong, đầu to quay ra ngoài biểu bì ngoài của bẹ lá.

– Rầy non rất linh hoạt, mới nở có màu xám trắng, tuổi 2 – 3 trở lên có màu nâu vàng, trong điều kiện mật độ cao có màu nâu sẫm.

– Con trưởng thành có màu nâu tối, con đực nhỏ hơn con cái. Có 2 dạng rầy trưởng thành: loại cánh dài và loại cánh ngắn.

1.2 Đặc điểm sinh học, sinh thái và gây hại

Vòng đời của rầy nâu từ 25 – 30 ngày và thay đổi theo mùa.

+ Thời gian trứng: 3 – 5 ngày.

+ Thời gian rầy non: 12 – 13 ngày.

+ Thời gian rầy trưởng thành: 10 – 12 ngày.

– Rầy cái trưởng thành có thể đẻ 150 – 250 trứng và có tính hướng sáng mạnh. Con trưởng thành và rầy non đều hút nhựa cây từ dảnh và lá lúa. Rầy nâu xâm nhập vào ruộng lúa ngay từ khi mới cấy và hại cả trên mạ. Rầy nâu phát sinh với mật độ cao và gây hại nặng vào giai đoạn trước lúc lúa trỗ bông, ngậm sữa và bắt đầu chín.

– Lúa thời kỳ đẻ nhánh nếu bị hại thì hình thành các vết màu nâu đậm, nếu bị hại nặng thì làm cho cây vàng còi cọc, khô héo và chết.

– Lúa thời kỳ làm đòng, trỗ bông nếu bị rầy gây hại với mật độ cao, làm cây khô héo, hạt và bông lép đen một phần hoặc cả bông.

– Khi lúa bị gây hại đồng thời tạo điều kiện cho nấm, bệnh xâm nhập làm cây thối nhũn, đổ rạp có thể lan rộng ra cả ruộng, cả cánh đồng nếu không phòng trừ kịp thời.

2. Tập quán sinh sống và quy luật gây hại

– Rầy trưởng thành thường tập trung thành từng đám ở thân cây lúa phía dưới khóm, khi bị khua động thì lẩn trốn bằng cách bò ngang hoặc nhảy sang cây khác.

– Ban ngày rầy trưởng thành ít hoạt động trên lá lúa, chiều tối bò lên phía trên thân và lá lúa. Khi lúa ở thời kỳ chín, phần dưới của thân cây đã cứng khô thì ban ngày rầy tập trung phía trên cây hoặc gần chỗ non, mềm của cuống bông để hút nhựa.

– Sự xuất hiện rầy dạng cánh dài và cánh ngắn phụ thuộc vào điều kiện nhiệt độ, độ ẩm và dinh dưỡng. Khi nhiệt độ thấp, ẩm độ cao, thức ăn phong phú thì xuất hiện dạng cánh ngắn nhiều.

– Nhiệt độ cao, ẩm độ thấp, thức ăn không thích hợp thì xuất hiện dạng cánh dài nhiều.

– Rầy dạng cánh ngắn có tuổi sống dài, tỷ lệ đực cái cao, số lượng rầy đẻ trứng cao hơn cánh dài. Do đó khi tỷ lệ cánh ngắn nhiều thì có khả năng phát sinh thành dịch.

– Một năm phát sinh từ 6 – 7 lứa, trong đó có hai lứa cần chú ý theo dõi và phòng trừ đó là lứa rầy phá hại vào tháng 4 – 5 với lúa vụ xuân và tháng 8 – 9 với lúa vụ mùa.

3. Biện pháp phòng trừ

– Để hạn chế tác hại của rầy, cần áp dụng các biện pháp phòng trừ dịch hại tổng hợp trên đồng ruộng. Sử dụng giống kháng rầy, vệ sinh đồng ruộng, cấy thưa 25 – 35 khóm/m2, bón phân cân đối.

– Ngoài ra, cần bảo vệ và tăng cường hoạt động của các loài ký sinh thiên địch như tạo nơi cư trú, hạn chế sử dụng thuốc hóa học trong giai đoạn đầu của cây lúa.

– Khi mật độ rầy khoảng 35 – 40 con/khóm, tương đương 1.500 con/m2 trở lên thì sử dụng thuốc đặc hiệu để phun trừ. Nếu mật độ cao cần phun 2 lần, lần 2 cách lần 1 từ 5 – 7 ngày.

– Hiện nay có rất nhiều thuốc trên thị trường đăng ký trừ rầy nâu hại lúa, hầu hết chúng đều chứa một trong số các hoạt chất sau: Thiamethoxam, Buprofezin, Pymertrozine, Imidacloprid, Nitenpyram, Chlopyrifos, Dinotefuran, Fipronil, ….

4. Lưu ý

– Giai đoạn lúa chín sáp đến chín gốc lúa đã già, không có khả năng vận chuyển các chất từ ngọn đi xuống nên khi bị rầy gây hại mật độ cao, bà con phải vạch gốc lúa theo hàng và dùng vòi phun trực tiếp vào các gốc lúa có rầy mới cho hiệu quả. Trước khi phun nên đưa nước vào ruộng ở mức 3 – 4cm để tiêu diệt được nhiều rầy.

– Sau khi phun thuốc 3 – 5 ngày cần kiểm tra lại ruộng nếu mật độ rầy còn cao cần phải phun nhắc lại lần 2. Pha và phun theo hướng dẫn kỹ thuật trên vỏ bao bì để hạn chế sự lây lan của rầy. Nếu phun khi rầy đã lây lan nhanh, trên diện rộng sẽ rất khó phòng trừ.